Di sản văn hóa là sự phản ánh tinh hoa và bản sắc văn hóa của mỗi địa phương, mỗi vùng miền. Cũng vậy, di sản văn hóa Phật giáo tỉnh BRVT nói riêng và di sản văn hóa nói chung, phản ánh những giá trị, tinh hoa của tỉnh nhà. Vì vậy, việc lưu giữ, bảo tồn, di sản văn hóa Phật giáo là bổn phận, nhiệm vụ hết sức cần thiết, sự tri ân của hậu thế đối với tiền nhân.
BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA PHẬT GIÁO TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU
Ban Văn hóa Phật giáo tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
- DẪN NHẬP
Phật giáo có mặt ở Việt Nam trải qua hơn 2000 năm lịch sử, cùng đồng cam cộng khổ với dân tộc. Với chiều dài lịch sử đó và với sự gắn bó, hòa nhập sâu rộng với văn hóa dân tộc, Phật giáo đã để lại cho dân tộc nhiều di sản văn hóa vật chất lẫn tinh thần có giá trị, bao gồm: kiến trúc nghệ thuật chùa tháp, tượng thờ, tranh thờ, hoành phi, câu đối, pháp khí… cùng những giá trị về tư tưởng, đạo đức, văn học, âm nhạc, nghi lễ Phật giáo, v.v… Vì thế, di sản văn hóa Phật giáo Việt Nam đã có những đóng góp to lớn vào kho tàng di sản văn hóa dân tộc.
Di sản văn hóa Phật giáo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (BRVT) cũng góp phần không nhỏ trong kho tàng văn hóa tỉnh nhà. Lịch sử tỉnh BRVT trải qua hơn 300 năm, thì cũng ngần ấy thời gian Phật giáo có mặt và tồn tại nơi đây. Nhưng qua những di vật để lại, cho thấy Phật giáo có mặt tại mảnh đất này khá sớm từ những năm đầu Công nguyên và muộn nhất cũng vào thế kỷ thứ VII. Tuy nhiên, di vật, sử liệu thật hiếm hoi và có nguy cơ bị mai một. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa nói chung và văn hóa Phật giáo tỉnh nhà nói riêng là một việc làm cấp bách hơn bao giờ hết.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin tập trung về việc bảo tồn di sản văn hóa Phật giáo tỉnh nhà ở mảng kiến trúc nghệ thuật chùa tháp, trang trí kiến trúc, tượng thờ và một số pháp khí trong một số cơ sở tự viện tiêu biểu.B. NỘI DUNG
1. Khái niệm vềVăn hóa
Văn hóa là một khái niệm mang nội hàm rất rộng với nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt về đời sống vật chất và tinh thần của con người.[1] Một cách hiểu thông thường khác: văn hóa là cách sống, ứng xử phù hợp bao gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận… Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận trong đời sống con người.[2] Võ Đình Cường định nghĩa một cách chung nhất “Văn hóa là một mẫu thức tập hợp kiến thức, tín ngưỡng và thái độ ứng xử của con người.”[3]
Tóm lại, văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người.[4]
Qua những khái niệm trên, có thể thấy, theo nghĩa hẹp, văn hóa trong tiếng Việt, dùng để chỉ học thức, lối sống. Theo nghĩa rộng, văn hóa là một tổng thể phức hợp bao hàm các lĩnh vực tư tưởng, văn học, đức tin, pháp luật, nghệ thuật, lịch sử, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống, đạo đức…[5] Như vậy, có thể thấy, văn hóa là một phạm trù rất rộng bao gồm cả giá trị vật chất lẫn tinh thần (phi vật chất).
Với khái niệm trên thì Văn hóa Phật giáo là một phạm trù khá rộng, bao gồm: Kiến trúc nghệ thuật, tôn tượng, ngôn ngữ, tư tưởng, niềm tin, tập quán, luật tắc, thể chế, công cụ, kỹ thuật, nghệ thuật, nghi lễ và các thành tố liên hệ khác. Với đặc tính từ bi và dung hợp, nên đi đến đâu Phật giáo cũng dễ dàng được tiếp nhận và dung hòa với văn hóa tín ngưỡng nơi đó nên văn hóa Phật giáo có mặt trong văn hóa dân tộc và ngược lại. Với những điểm tương đồng vốn có, Phật giáo khi vào Việt Nam, nhanh chóng được người dân tiếp nhận một cách tự nhiên, như nước hòa với sữa. Mối tương quan giữa văn hóa Phật giáo và văn hóa dân tộc là rất mật thiết, hòa quyện, đến nỗi có thể nói nền văn hóa Phật giáo là nền văn hóa dân tộc. Giáo sư Trần Văn Giàu đã nhận định: “Bình minh của dân tộc ta đã gắn liền với Phật giáo. Phật giáo là ngọn đuốc văn minh ở xứ ta”.[6] Vì vậy, trong các di sản văn hóa quốc gia được công nhận trong thời gian qua có rất nhiều hạng mục là chùa chiền, tượng tháp, kinh điển, mộc bản kinh văn Phật giáo… Đó là chưa đề cập đến kho tàng di sản phi vật thể khác ẩn trong hình thái tín ngưỡng, ngôn ngữ, tập quán, niềm tin, lối sống, văn học, nghệ thuật…
Theo Luật Di sản văn hóa, tất cả mọi tổ chức hay cá nhân đều có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo tồn di sản văn hóa, vì đó là tài sản chung của dân tộc được trao truyền qua nhiều thế hệ. Luật này quy định về các hoạt động “bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; xác định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn hóa ở nước CHXHCN Việt Nam.”[7] Vì vậy, tất cả công dân đều có quyền và nghĩa vụ: “Tôn trọng, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa”. Đối với di sản văn hóa Phật giáo cũng tương tự như vậy.2. Tình hình thực tế của di sản văn hóa Phật giáo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Trước khi bàn đến di sản văn hóa Phật giáo tỉnh BRVT, chúng ta cùng tìm hiểu đôi nét về lịch sử hình thành và những di sản văn hóa tỉnh nhà. Theo các nhà nghiên cứu và từ những cuộc khảo cổ ở Long Sơn là dấu ấn lịch sử BR-VT, chứng minh vị trí của vùng đất xứ Mô Xoài xưa trong tiến trình lịch sử Nam bộ nói riêng và lịch sử nước ta nói chung.[8] Xứ Mô Xoài là tên gọi xưa nhất của tỉnh BRVT ngày nay mà TP. Bà Rịa là trung tâm của vùng đất Mô Xoài. Đây là địa bàn dừng chân đầu tiên của người Việt vùng Thuận – Quảng trên hành trình khai khẩn đất hoang và lập nên những xóm làng người Việt trên vùng đất Nam bộ. [9]
Ở vào vị trí thuận lợi, BRVT đã có một vị thế nhất định trong suốt các quá trình lịch sử. Và tất nhiên, trong lòng đất, trong đời sống văn hóa xã hội của cư dân BRVT trước đây còn lưu giữ những dấu vết, những di tích và sự giao thoa, ảnh hưởng của các nền văn hóa nói trên. Qua nhiều cuộc khảo cố, bảo tàng lịch sử lưu giữ vô số những hiện vật. Tính riêng hai cuộc khai quật năm 2003, 2005 tại Long Sơn, các nhà khảo cổ đã thu được 2.310 hiện vật có niên đại cách nay khoảng 2.000-3.000 năm.[10]
Chúng ta có thể thấy qua thực tế, di sản văn hóa tại tỉnh nhà khá nhiều và trong đó không thể nào không nói đến nhiều hạng mục là chùa tháp, tượng thờ, pháp khí, văn khắc kinh điển, mộc bản kinh văn Phật giáo… Khi tìm hiểu về tình hình thực tế di sản văn hóa Phật giáo tỉnh BRVT, chúng ta tìm hiểu về di sản kiến trúc nghệ thuật, tượng thờ và pháp khí một số các cơ sở tiêu biểu.Long Bàn Cổ Tự[11]: còn gọi là chùa Làng Long Điền, xây dựng vào năm 1845 do Hòa thượng Hải Chánh – Bảo Thanh (1752- 1859) trụ trì đầu tiên. Chùa tọa lạc tại thôn Long Phượng, thị trấn Long Điền, huyện Long Điền. Chùa được khởi lập từ giữa thế kỷ 19, nhưng đến nay vẫn giữ được những đặc trưng kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc cổ xưa rất tinh xảo mang đậm nét truyền thống dân tộc. Các tượng Phật đều được điêu khắc mỹ thuật sinh động; khánh thờ và các hoành phi, câu đối chạm trổ công phu, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Quả thật xứng danh là một trong những chùa cổ của Miền Đông Nam Bộ.
Tổ đình Thiên Thai[12]: còn gọi là Thiên Thai cổ tự, nằm ở phía Bắc chân núi Dinh Cố thuộc ấp 3, xã An Ngãi, huyện Long Điền, tỉnh BRVT.
Tổ đình Thiên Thai do Hòa thượng Huệ Đăng (1873 – 1953) là Tổ thứ 41 thuộc thiền phái Lâm Tế, chi phái Liễu Quán thành lập chùa vào khoảng năm 1920. Nơi đây từng là trụ sở của “Thiên Thai Thiền Giáo Tông” và là nơi xuất bản tạp chí “Bát Nhã âm”.
Các công trình tổ đình Thiên Thai, nổi bật là điện thờ Phật được thiết kế ở trung tâm với những đặc điểm rất độc đáo, 4 trụ đá ở bốn góc, giữa là một trụ đá nâng đỡ toàn điện thờ, tạo thành chữ “Ngũ”. Phần trang trí kiến trúc được chạm trổ, công phu những hình trang trí truyền thống như: Hổ phù, Lửa tam muội, hai bên là hình Rồng cách điệu, tạo nên nét uyển chuyển, sinh động; các hoành phi, các cặp liễn sơn son thếp vàng và văn bia viết bằng Hán rất cổ kính. Mái nhà theo kiểu kiến trúc chồng diêm xuôi về bốn góc – một lối kiến trúc đặc trưng truyền thống của Nam bộ.
Bảo tháp Thiền sư Hải Bình – Bảo Tạng:
Thiền sư Hải Bình Bảo Tạng (1818- 1872) là một vị cao tăng triều Nguyễn. Sư thuộc thiền phái Lâm Tế, chi phái Liễu Quán, đời pháp thứ 40. Thiền sư vân du hóa đạo nhiều nơi tại các tỉnh Phú Yên, Bình Thuận, Ninh Thuận và vào cả tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Tại đất BRVT, Ngài hoằng pháp lợi sanh và thành lập nhiều ngôi chùa như: Châu Viên Sơn, Ngọc Tuyền, Long An, chùa Bửu An, Long Hưng, Long Hòa, v.v… Thiền sư viên tịch năm 1872 tại chùa Ngọc Tuyền, chúng đệ tử phụng lập Bảo Tháp của thiền sư trong khuôn viên chùa. Hiện là khuôn viên đền thờ liệt sĩ ở núi Minh Đạm, khu di tích lịch sử Quốc Gia, thuộc khu phố Hải Sơn, Thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ, tỉnh BRVT.
Nói về Bảo tháp của Tổ sư, kiến trúc xây dựng bảo tháp khá cổ xưa, theo kiểu lục giác, gồm có 3 tầng. Tháp được xây dựng bằng đá xanh kết hợp với các nguyên liệu cổ truyền như mật mía, vôi, tạo nên sự bền chắc của kiến trúc. Tuy nhiên, trải qua thời gian dài không được bảo quản tốt, phần bị tác động bởi vài yếu tố khách quan nên nay bị xuống cấp và hư hại nhiều.
Ngoài ra, một số các chùa khác cũng có những công trình kiến trúc nghệ thuật khá đặc sắc và cần được quan tâm như: chùa Long Hòa, Thích Ca Phật đài, Niết Bàn Tịnh xá, Tổ đình Đại Tòng Lâm, chùa Phước Lâm, Linh Sơn cổ tự, Linh Sơn Bửu Thiền tự, v.v…
Về di sản văn hóa đối với tượng thờ và pháp khí: hiện tại có khá nhiều những di sản quý giá nằm rải rác trong một số các chùa như:
Linh Sơn Cổ Tự là ngôi chùa mang bề dày giá trị về văn hóa lịch sử, tọa lạc tại số 104, đường Hoàng Hoa Thám, Phường 2, Thành phố Vũng Tàu. Về di sản tượng thờ, đặc biệt là Chùa còn lưu giữ Tượng Phật Thích Ca bằng đá Sa Thạch màu xám có niên đại từ thế kỷ VII.[13]
Thích Ca Phật Đài là một quần thể kiến trúc Phật giáo độc đáo có quy mô lớn nằm hướng Đông Bắc của Núi Lớn, tọa lạc tại 608 đường Trần Phú, Phường 5, Tp Vũng Tàu, được chính thức xây dựng vào năm 1961 với kiến trúc Phật giáo đặc thù của Phật giáo Nam Tông. Ngoài những di sản văn hóa kiến trúc Phật giáo như: Bảo tháp thờ 13 viên xá lợi Phật, Đài và Tượng Phật Thích Ca Ngồi với diện rất đẹp… Nơi đây lưu giữ một số di sản nỗi bật như: các bia kinh khảm óc xà cừ bài kinh “Chuyển Pháp Luân”, Kinh viết trên lá bối ngôn ngữ Khmer cổ niên đại thế kỷ XVII, Tượng Phật xưa bằng đá xanh theo phong cách Óc Eo, xá lợi Phật, v.v…
Niết Bàn Tịnh Xá: còn được gọi là chùa Phật Nằm, được hòa thượng Thích Thiện Huệ xây dựng vào năm 1969 trên triền núi Nhỏ, ở trung tâm Bãi Dứa. Bên cạnh những kiến trúc nghệ thuật, chùa còn có chiếc lư đồng Tứ Linh “Long, Ly, Quy, Phụng” có kích thước lớn, được trang trí khéo léo, công phu, tinh xảo và là báu vật của chùa. Nổi bật nhất ở nơi đây là lầu chuông với quả chuông lớn nặng 3500kg.
Chùa Phước Lâm khởi dựng từ những năm đầu thế kỷ XIX dưới chân Núi Lớn, thuộc khóm Bình Sơn. Năm 1886, chùa di dời về vị trí hiện nay (65, Nguyễn Bảo, phường Thắng Nhì). Phước Lâm cổ tự là nơi lưu giữ nhiều bức tượng và một số bàn thờ bằng gỗ mun có niên đại thế kỷ XIX đặt trong chánh điện. Nhưng đặc sắc nhất phải kể đến pho tượng Vishnu quý hiếm bằng đá sa thạch có niên đại từ thế kỷ thứ VII.3. Thực trạng bảo tồn di sản văn hóa Phật giáo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Với những di sản văn hóa Phật giáo tỉnh BRVT vừa mới kể trên, chúng ta thấy nhìn nhận thực trạng của việc bảo tồn những di sản đó như sau:
Trước tiên, vấn đề bảo tồn một số công trình kiến trúc là di tích lịch sử hay di tích văn hóa còn nhiều hạn chế. Các công trình này đang bị bào mòn bởi thời gian và khí hậu khắc nghiệt, một số các công trình bị xuống cấp trầm trọng như: Tổ đình Thiên Thai, chùa Long Bàn, chùa Long Hòa, v.v… Đặc biệt trong đó phải kể đến là tháp của thiền sư Bảo Tạng đã bị hư mục và xuống cấp trầm trọng. Các vách bị hư mục, có nhiều chỗ bị lõm vào và các góc cạnh không còn nguyên vẹn nữa.
Kế đến, phải nói đến một số công việc trùng tu, sửa chữa thuộc di tích vẫn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và chưa có ghi chép một cách bài bản để lưu truyền đến thế hệ sau. Đây là vấn đề căn bản để những người chuyên trách trong công tác bảo tồn, trùng tu di tích phải quan tâm.
Bên cạnh đó, hiện tượng hiện đại hóa các công trình kiến trúc thiếu chú ý đến những di tích, di vật có giá trị truyền thống khiến cho những di tích kiến trúc nghệ thuật cổ xưa không còn nữa mà thay vào đó là một kiểu kiến trúc hoàn toàn mới.
Việc bảo tồn các di tích như tượng thờ, pháp khí là một thực trạng đáng buồn khi số lượng bị thất thoát. Công tác gìn giữ bảo vật Phật giáo còn đơn giản và lỏng lẻo chủ yếu dựa vào sự quản lý của nhà chùa. Điều đó cũng dễ hiểu là do sự hạn chế nhận thức của Tăng, Ni trụ trì các cơ sở tự viện về giá trị di sản, vai trò, trách nhiệm và các quy định trong công tác bảo tồn, phát huy di sản Phật giáo.
Hơn nữa, sự phối hợp giữa vị trụ trì với cơ quan quản lý nhà nước về di sản văn hóa còn chưa thực sự đồng bộ, thống nhất, đôi khi còn chồng chéo hoặc còn khoảng trống đã gây ra những khó khăn, nhất là trong hoạt động sửa chữa, cải tạo, xây dựng các công năng phục vụ sinh hoạt của cơ sở tự viện. Ví dụ có những trường hợp các vị trụ trì báo cáo và xin sửa chữa, xong thời gian chờ giấy phép tu sửa quá lâu dẫn đến di sản bị hư hại. Đây cũng là vấn đề mà nhiều năm nay Giáo hội PGVN cũng như Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chưa tháo gỡ, giải quyết triệt để.4. Những giải pháp bảo tồn di sản Văn hóa Phật giáo BRVT
Việc bảo tồn di tích, di sản văn hóa nói chung và di tích, di sản văn hóa Phật giáo nói riêng đều dựa trên nguyên tắc cơ bản của luật bảo tồn di sản[14]. Mục đích cơ bản của công tác bảo tồn là phải đảm bảo tôn trọng sự thật, tôn trọng tính nguyên bản của nó và phát huy hiệu quả giá trị của di sản đó. Để việc bảo tồn đạt được kết quả tốt đòi hỏi phải thực hiện một số giải pháp sau:
1. Đối với Tăng Ni trụ trì các cơ sở tự viện thuộc di tích, di sản văn hóa Phật giáo cần nâng cao ý thức bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Phật giáo tại cơ sở tự viện của mình quản lý.
2. Đối với Giáo hội PGVN tại tỉnh nhà cần có công văn hướng dẫn, tuyên truyền sâu rộng tới Tăng Ni trụ trì về những giá trị đặc trưng văn hóa Phật giáo Việt Nam và vai trò của những giá trị đó đối với đời sống cũng như phát triển Phật giáo để họ nhận thức sâu sắc và có ý thức tự bảo tồn và phát huy những giá trị ấy.
3. Giáo hội PGVN nói chung và GHPGVN tỉnh nhà nói riêng cần sớm lập kế hoạch, chương trình, đề án nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, tư liệu lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam tại tỉnh nhà. Từ đó, biên tập về lịch sử hình thành, phát triển của các ngôi chùa làm cơ sở thực tiễn cho việc nghiên cứu những đặc trưng, giá trị văn hóa Phật giáo và định hướng phát huy những giá trị đó ở tầm cao hơn trong việc quản lý, phát huy giá trị văn hóa Phật giáo tỉnh nhà.
4. Tăng cường tuyên truyền, quảng bá giá trị văn hóa Phật giáo không chỉ qua các phương tiện truyền thông, ấn phẩm văn hóa tâm linh như: Gắn biển tên, lời giới thiệu, chú thích, tờ rơi… giới thiệu về ngôi chùa (di tích) và giá trị các hiện vật (đồ thờ, tượng thờ, pháp khí, cây di sản…) cho đến tổ chức các buổi sinh hoạt cộng đồng có nội dung giới thiệu về giá trị di sản tại cơ sở thờ tự…
5. Lập kế hoạch, thực hiện gìn giữ và có biện pháp bảo vệ, phương pháp bảo quản khoa học các tài liệu lịch sử, di sản văn hóa Phật giáo: kinh tụng, tượng thờ, pháp khí, phương thức tu tập, tập tục, nghi lễ…
6. Giáo hội và cơ quan chức năng cần tổ chức thăm hỏi, khảo sát thực địa, động viên Tăng Ni trụ trì để kịp thời điều chỉnh, hướng dẫn cơ sở tự viện bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa Phật giáo.
Để đảm bảo hiệu quả bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Phật giáo tại tỉnh BRVT, các giải pháp trên cần được thực hiện đồng bộ và có thể liên kết, kết hợp thực hiện các giải pháp tạo thành chuỗi vấn đề. Vì vậy, rất cần sự quan tâm, ủng hộ, chỉ đạo sát sao của Giáo hội tỉnh BRVT và các ban, viện liên quan.C. KẾT LUẬN
Di sản văn hóa là sự phản ánh tinh hoa và bản sắc văn hóa của mỗi địa phương, mỗi vùng miền. Cũng vậy, di sản văn hóa Phật giáo tỉnh BRVT nói riêng và di sản văn hóa nói chung, phản ánh những giá trị, tinh hoa của tỉnh nhà. Vì vậy, việc lưu giữ, bảo tồn, di sản văn hóa Phật giáo là bổn phận, nhiệm vụ hết sức cần thiết, sự tri ân của hậu thế đối với tiền nhân.
So với chiều dài lịch sử của dân tộc thì lịch sử tỉnh BRVT có phần mới mẻ, nhưng qua các cuộc khảo cổ học đã khẳng định, BRVT là vùng đất phồn thịnh nhất trong quá trình Nam tiến và để lại vô số những di sản văn hóa. So với khối lượng di sản này thì di sản văn hóa Phật giáo tại tỉnh nhà có phần khiêm tốn (cũng có thể là chưa được khai quật hoặc bị thất thoát theo thời gian). Vì vậy, mỗi Tăng, Ni trước hết là một công dân Việt Nam có nghĩa vụ và trách nhiệm gìn giữ và phát huy di sản văn hóa Phật giáo nói riêng và văn hóa dân tộc nói chung. Đặc biệt các Tăng, Ni là người trụ trì ở những ngôi chùa, chùa di tích thì hơn ai hết, họ lại càng đóng vai trò quan trọng, trực tiếp trong việc gìn giữ, phát huy giá trị di sản đó.
Bảo tồn, phát huy văn hóa của dân tộc gắn với di sản văn hóa Phật giáo cũng là góp phần bảo tồn, phát huy di sản văn hóa chung của dân tộc Việt Nam. Nên việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Phật giáo tỉnh BR-VT cần được đặt trong mối quan hệ giữa các dân tộc, các tôn giáo trong cộng đồng trên địa bàn tỉnh và trong cả nước. Vì vậy, mỗi chúng ta hãy cùng chung tay làm sáng rõ nhiều giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa của vùng đất BR-VT. Hãy biến những kết quả nghiên cứu của các cuộc hội thảo, các tọa đàm, những hiện vật thông qua các cuộc khảo cổ trở nên sống động nơi vùng đất này mà nó đã từng có được.TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Di sản văn hóa, gồm 7 chương, 74 điều, http://dsvh.gov.vn/luat-di-san-van-hoa-1644
2. Macionis, J. Jonhn, Xã hội học (1987) – Nhà xuất bản Thống kê, tr.82
3. Vài ý kiến về Bảo tồn và Phát huy Văn hoá Phật giáo Việt Nam, tạp chí Văn hóa Phật giáo số 1, (2005)
4. https://vi.wikipedia.org/wiki/Văn_hóa
5. Thích Hạnh Tuệ & Thích Thanh Quế, Văn hóa Phật giáo Việt Nam: Vấn đề và suy nghĩ, https://phatgiao.org.vn/van-hoa-phat-giao-viet-nam-van-de-va-suy-nghi-d51300.html
6. Trần Văn Giàu, “Đạo Phật và một số vấn đề của lịch sử tư tưởng Việt Nam”, Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng của dân tộc, Viện Triết học, Hà Nội, 1998, tr. 15.
7. Nguyễn Thị Huyền, Di sản Văn hóa là gì? https://luathoangphi.vn/di-san-van-hoa-la-gi/
8. Lương Văn Kế, Thế giới đa chiều (2007), Nhà xuất bản Thế giới, tr. 319-320
9. Quang Vũ, Di chỉ khảo cổ Long Sơn: Dấu ấn của cư dân cổ vùng đất ven biển
https://baobariavungtau.com.vn/xa-hoi/201912/di-chi-khao-co-long-son-dau-an-cua-cu-dan-co-vung-dat-ven-bien-884709/index.htm
10. Đinh Văn Hạnh, Hội khoa học lịch sử tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
https://thanhphobaria.com/nhung-van-de-trong-nghien-cuu-lich-su-ba-ria-vung-tau/
11. UBND huyện Long Điền, Sổ tay Di tích lịch sử – Văn hóa và Danh lam thắng cảnh huyện Long Điền, tỉnh BRVT, 2017
12 Đinh Hưũ Chí, “Xứ Mô Xoài – vùng đất đầu tiên người Việt khai phá ở Nam Bộ”, kỷ yếu hội thảo Từ xứ Mô Xoài xưa đến Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay.
13. Trần Thị Phương Thảo, Xứ Mô Xoài – mảnh đất đầu tiên được khai phá trong tiến trình mở cõi về Nam Bộ, https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3096/13387/xu-mo-xoai-manh-djat-djau-tien-djuoc-khai-pha-trong-tien-trinh-mo-coi-ve-nam-bo.html
[1] Lương Văn Kế, Thế giới đa chiều (2007), Nhà xuất bản Thế giới, tr. 319-320
[2] Macionis, J. Jonhn, Xã hội học (1987) – Nhà xuất bản Thống kê, tr.82
[3] Vài ý kiến về Bảo tồn và Phát huy Văn hoá Phật giáo Việt Nam, tạp chí Văn hóa Phật giáo số 1, (2005)
[4] https://vi.wikipedia.org/wiki/Văn_hóa
[5] Thích Hạnh Tuệ & Thích Thanh Quế, Văn hóa Phật giáo Việt Nam: Vấn đề và suy nghĩ, https://phatgiao.org.vn/van-hoa-phat-giao-viet-nam-van-de-va-suy-nghi-d51300.html
[6] Trần Văn Giàu, “Đạo Phật và một số vấn đề của lịch sử tư tưởng Việt Nam”, Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng của dân tộc, Viện Triết học, Hà Nội, 1998, tr. 15.
[7] Điều 2, Luật Di sản Văn hóa, http://dsvh.gov.vn/luat-di-san-van-hoa-1644
[8] Quang Vũ, Di chỉ khảo cổ Long Sơn: Dấu ấn của cư dân cổ vùng đất ven biển
https://baobariavungtau.com.vn/xa-hoi/201912/di-chi-khao-co-long-son-dau-an-cua-cu-dan-co-vung-dat-ven-bien-884709/index.htm
[9] Trần Thị Phương Thảo, Xứ Mô Xoài – mảnh đất đầu tiên được khai phá trong tiến trình mở cõi về Nam Bộ, https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3096/13387/xu-mo-xoai-manh-djat-djau-tien-djuoc-khai-pha-trong-tien-trinh-mo-coi-ve-nam-bo.html
[10] Quang Vũ, Di chỉ khảo cổ Long Sơn: Dấu ấn của cư dân cổ vùng đất ven biển
https://baobariavungtau.com.vn/xa-hoi/201912/di-chi-khao-co-long-son-dau-an-cua-cu-dan-co-vung-dat-ven-bien-884709/index.htm
[11] Chùa được xác lập di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo quyết định số 680 VH/QĐ ngày 19/4/1991.
[12] Di tích lịch sử văn hóa – kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh vào năm 2008.
[13] Chùa được nhà nước công nhận Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Kiến Trúc Nghệ Thuật (Quyết định số: 1371/VH-QĐ ngày 03/08/1991).
[14] Tham khảo Luật Di sản văn hóa, gồm 7 chương, 74 điều, http://dsvh.gov.vn/luat-di-san-van-hoa-1644